5. Nơi bạn sinh ra không quyết định chốn bạn sẽ tới
Ada E. Yonath được trao giải Nobel về Hóa Học năm 2009 cho các nghiên cứu tiên phong của bà về Ribosome. Nghiên cứu của Ada đã dẫn đến việc hiểu rõ một cách chi tiết cơ chế hoạt động của một số loại kháng sinh được kê đơn phổ biến nhất, cũng như tạo ra những vi tinh thể ribosome đầu tiên giúp tiết lộ cấu trúc ba chiều của ribosome. Những phát hiện này góp phần quan trọng trong việc phát triển các loại kháng sinh hiệu quả hơn và mang đến cho các nhà khoa học những “vũ khí” mới trong cuộc chiến chống lại vi khuẩn kháng thuốc.
Ada Yonath sinh năm 1939 tại một gia đình nghèo ở Jerusalem. Gia đình bà phải chuyển chỗ ở khá nhiều nơi vì tình hình địa chính trị của vùng đất này thời bấy giờ. Năm 11 tuổi, bà được chuyển tới Tev Aviv, nơi tuổi thơ của bà lớn lên nhờ vào những công việc làm thêm, từ lau dọn, bồi bàn, cho tới giữ trẻ, hay sau này lớn hơn là đi dạy thêm. Các công việc bán thời gian giúp đỡ gia đình, xen lẫn giữa các giờ học, giúp cho mẹ của bà, người phải chăm sóc cả gia đình lẫn bố bà bị bệnh nặng và thường xuyên phải nằm viện. Bà may mắn là dù gia đình khó khăn, ba mẹ của bà vẫn quyết tâm để bà được đến trường.
Nhờ quyết tâm, bà tốt nghiệp xuất sắc đại học và thạc sĩ từ Hebrew University of Jerusalem, và được học bổng để nhập học tiến sĩ trường Weizmann Institute cũng ở Israel. Tốt nghiệp tiến sĩ và sau thời gian làm postdoc tại MIT, bà trở lại trường cũ làm việc, tới gần hơn 10 năm. Bà chưa bao giờ nghĩ rằng bà sẽ trở nên nổi tiếng hay giành bất cứ giải thưởng gì. Ada chỉ tò mò về quá trình protein biosynthesis của tế bào, và bà nghĩ rằng cái cấu trúc 3D của ribosome, nhà máy phiên dịch các dòng lệnh từ mã gen vào protein, là cái bà cần khám phá. Thế là bà chỉ tập trung vào bài toán đó, và Ada nói rằng, đây là một quá trình rất dài, giống như bạn leo lên được đỉnh Everest, để rồi phát hiện ra rằng có một đỉnh Everest khác, cao hơn ở ngay trước mắt. Có lẽ cũng vì thế mà không phải ai cũng tin tưởng bà, đặc biệt khi bà là một phụ nữ, ở trong môi trường tôn giáo của thế giới Do Thái ở Trung Đông, và khắc nghiệt hơn khi đó là môi trường học thuật. Ada từng bị sa thải không ít lần. Bà từng bị nhiều nhà khoa học khác mỉa mai và hoài nghi, với các danh xưng như “kẻ mộng mơ của thế giới”, “gã ngốc của làng khoa học”, “nhà khoa học tự xưng”, và “người bị dẫn dắt bởi ảo tưởng”, v.v., hay những câu như: “Tại sao lại nghiên cứu ribosome, chúng đã chết rồi… tất cả những gì cần biết về chúng ta đều biết hết rồi”, hoặc: “Đó là con đường cụt thôi”, hay: “Cô sẽ chết trước khi đến đích mất.” Thật thú vị, những lời tiên đoán đó đã hoàn toàn sai: ribosome không hề “chết” mà vẫn đang hoạt động mạnh mẽ (và cả Ada cũng vậy). Các cấu trúc có độ phân giải cao của ribosome đã khơi nguồn cho vô số nghiên cứu tiên tiến sau này.
Trong buổi nói chuyện với bọn tôi, một người có hỏi là vốn sinh ra trong một gia đình nghèo, không được điều kiện học hành tốt, thì khi vào các trường lớn, lab lớn, thì có bị hội chứng kẻ giả mạo (imposter syndrome) không? Ada hỏi, đó là cái gì thế, mọi người bảo đó là cảm giác sâu sắc rằng bản thân không xứng đáng với thành công mình đã đạt được, cùng nỗi sợ người khác “phát hiện” ra mình không tài giỏi đến mức đấy. Ada đùa “cái này cũng gọi là syndrome à, lần đầu tiên được nghe thấy đó, cảm ơn em đã dạy cô một kiến thức mới nhé. Nhưng mà em đừng lây triệu chứng này cho cô nha”. Mọi người cười, còn Ada không trả lời thêm nữa. Con gái của Ada (ngồi gần đó) tiếp lời là ở thế hệ trước, mọi người chỉ quan tâm tới vấn đề của họ, và họ cứ thế làm thôi, không quan tâm quá nhiều tới xung quanh đánh giá mình ra sao đâu. Bây giờ giới trẻ vì lúc nào cũng có ai đó theo dõi (ngoài đời, trên mạng xã hội, etc.), nên cứ luôn cảm giác mình không tốt bằng người khác, tạo nên một từ mới là “imposter syndrome”.
Ada sinh ra từ một vùng quê nghèo đầy chiến sự, với một tuổi thơ khổ cực, nhưng tất cả không ngăn cản sự tò mò về khoa học của bà. Nơi bạn sinh ra không quyết định chốn bạn sẽ tới!